A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Giới thiệu Báo cáo “Chỉ số năng lực hội nhập kinh tế cấp địa phương năm 2013”. Kỳ 3: CÔNG KHAI CẢ NHỮNG NIỀM VUI VÀ NỖI BUỒN !

 Sau 18 năm kể từ ngày Việt Nam bắt đầu hội nhập vào tổ chức khu vực đầu tiên là ASEAN, sau hơn 6 năm Việt Nam gia nhập WTO và triển khai các Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 5/2/2007 của Hội nghị lần thứ tư BCHTW Đảng khóa X về “Một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO, đây là thời điểm Chính phủ và các Bộ, ngành và địa phương cần đánh giá lại hiệu quả của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và kết quả của việc xây dựng và triển khai các Chương trình hành động của Chính phủ, của Bộ, ngành và của các địa phương. 


Phút "trầm tư" của Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan tại Hội thảo Báo cáo năng lực hội nhập kinh tế quốc tế cấp địa phương 2013 

 Nhằm đánh giá tình hình và năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của các địa phương để có giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các hoạt động và nhiệm vụ hội nhập kinh tế quốc tế của các Ban hội nhập kinh tế quốc tế cấp tỉnh, Chương trình Hỗ trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO đã hỗ trợ Văn phòng Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế (UBQG về HTKTQT) triển khai Dự án: “Nâng cao năng lực quản lý và điều phối hội nhập kinh tế quốc tế”, trong đó có Hoạt động: “Xây dựng hệ thống chỉ số hội nhập kinh tế cấp tỉnh và thành phố”.

Dự án đã được phê duyệt và đi vào hoạt động ở năm đầu tiên (2010) với Báo cáo Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế cấp địa phương. Báo cáo này đánh giá sơ bộ thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế năm 2010 của 50 tỉnh, thành phố (13 tỉnh, thành phố còn lại do thiếu dữ liệu nên chưa thể tiến hành phân tích đánh giá) thông qua một thang đo lường chung được xây dựng là “Chỉ số hội nhập kinh tế cấp địa phương”. Tiếp tục những thành công và khắc phục hạn chế nghiên cứu của năm đầu tiên, sang năm thứ hai, Báo cáo Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế cấp địa phương 2013 được thực hiện với 2 điều chỉnh chính:

(1) Rà soát và điều chỉnh hệ thống tiêu chí cấu thành mô hình dựa trên điều kiện thực tế và những thiếu sót trong quá trình thu thập dữ liệu của năm đầu tiên. 
 (2) Tính toán và điều chỉnh trọng số của mỗi tiêu chí trong trụ cột và của trụ cột trong tổng điểm, nhằm phân định thứ hạng của mỗi địa phương rõ ràng hơn.
 Sau khi triển khai hoạt động nói trên, Nhóm nghiên cứu của Dự án đã hoàn thành Báo cáo Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế cấp địa phương năm 2013.
 Mục tiêu chính của báo cáo này nhằm xác định được mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi địa phương, các tác động của hội nhập đến việc tăng trưởng phúc lợi cho người dân và phát triển kinh doanh doanh nghiệp. Bên cạnh đó, báo cáo còn đánh giá sự phù hợp giữa tầm nhìn chiến lược của địa phương đối với năng lực hội nhập hiện tại để chỉ ra các điều chỉnh cần thiết cho việc thu hút nguồn lực cho phát triển bền vững.

Quan trọng hơn cả, Nhóm nghiên cứu muốn cung cấp một cái nhìn rõ ràng và toàn diện về vấn đề hội nhập của địa phương và cố gắng đi đến một thống nhất chung cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội với các điều kiện hội nhập đặc thù của mỗi địa phương. 

  

Danh mục mẫu biểu xếp hạng chỉ số năng lực hội nhập kinh tế các các tỉnh thành năm 2013

 Các thông số hay trụ cột chính để các địa phương hội nhập và phát triển thành công mà báo cáo này đưa ra gồm 8 trụ cột là: (1) Thể chế, (2) Cơ sở hạ tầng, (3) Văn hóa, (4) Đặc điểm tự nhiên địa phương, (5) Con người, (6) Thương mại, (7) Đầu tư, (8) Du lịch. Mỗi trụ cột được xem xét dựa trên một số chiều kích và phương diện nhất định. Các trụ cột này vừa có tác dụng thu hút nguồn lực dành cho nguồn lực đó đến từ bên ngoài, vừa phản ánh thực trạng hình ảnh trụ cột đang tồn tại và có khuynh hướng dịch chuyển đến những nơi khác (địa phương hay nền kinh tế khác) thu hút hơn. Mức độ hội nhập đơn giản được đo lường dựa trên cách tiếp cận về dịch chuyển nguồn lực giữa các địa điểm về mặt số lượng, chất lượng, cường độ để thấy được mức độ mạnh hay yếu của việc hội nhập kinh tế.

Báo cáo này được chia làm hai phần chính. Phần một đặt vấn đề về năng lực hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó, đưa ra các quan điểm của tác giả trên cơ sở nghiên cứu và phân tích các mô hình trên thế giới về hội nhập kinh tế. Thực tế, trên thế giới đã có khá nhiều các công trình có liên quan đến việc đánh giá mức độ hội nhập kinh tế của các quốc gia, các địa phương. Mỗi công trình nghiên cứu có các cơ sở chứng minh riêng song tựu chung lại thì đều chỉ ra rằng đánh giá các vùng/miền là một vấn đề nhận được rất nhiều sự quan tâm từ việc xác định hình ảnh về một thành phố trong tâm trí người dân cho đến việc đánh giá mức độ hội nhập kinh tế của thành phố đó so với các thành phố khác trong cùng một quốc gia. 

Chúng tôi đã tập trung phân tích các chỉ số thương hiệu thành phố[1], chỉ số hội nhập kinh tế tổng hợp của khu vực châu Á Thái Bình Dương[2], chỉ số Hội nhập nền kinh tế Bắc Mỹ[3], chỉ số Hội nhập Wantanabe Kanji[4], chỉ số phát triển kinh tế bền vững[5], chỉ số phụ thuộc thương mại[6], chỉ số hội nhập kinh tế tổng hợp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương[7]… Trên cơ sở nghiên cứu các mô hình liên quan, chúng tôi đã điều chỉnh một số tiêu chí trong mô hình chỉ số để phục vụ cho công tác đánh giá năng lực hội nhập kinh tế của các địa phương phù hợp với thực tế dữ liệu ở Việt Nam. Trên thế giới chưa từng có mô hình tương tự.

Trong phần một của báo cáo, giới thiệu về nội dung chỉ số, 8 trụ cột cấu thành mô hình chỉ số, các chiều kích xem xét trong mỗi trụ cột, phương pháp lựa chọn trọng số, các phương pháp và các bước nghiên cứu đã được tiến hành, đối tượng tham gia điều tra và kết quả nghiên cứu. Những hạn chế mà nghiên cứu chưa đủ nguồn lực để thực hiện, như chưa điều tra đối tượng của nghiên cứu là khách du lịch nước ngoài hay nhà đầu tư nước ngoài, cũng được nêu ra trong báo cáo. 

Mô hình không phải là hoàn thiện mà nó mang tính mở ngỏ cho khả năng cải thiện khôn cùng. Nó sẵn sàng cho việc kiểm sai trong thực tế để có thể có những cải tiến về mặt giả thiết hay thay đổi phương pháp của mô hình cho ngày càng hoàn thiện hơn, phục vụ công tác đánh giá năng lực hội nhập. Cũng trong phần này, nhóm nghiên cứu chỉ ra các hồi tiếp dương và hồi tiếp âm giữa các trụ cột. Ý nghĩa của hồi tiếp dương là tương tác thuận giữa các trụ cột. Hồi tiếp âm là tương tác nghịch giữa các trụ cột. Điều này hàm ý cho các tác động về mặt chính sách để có thể đạt được sự thay đổi trong tương lai.

Phần hai của báo cáo phân tích chi tiết 8 trụ cột để thấy được nội dung cụ thể trong từng trụ cột quyết định sức mạnh của trụ cột. Số lượng các chiều kích và phương diện xem xét của mỗi trụ cột được chỉ ra chi tiết trong báo cáo. Số lượng này còn có thể thiếu một số nội dung, mà theo ý kiến chuyên gia là mang tầm quan trọng, điều này thông thường do khả năng khó có thể thu thập đủ dữ liệu cho phân tích của chỉ tiêu. Vấn đề nguồn dữ liệu thống kê và đồng nhất số liệu là một vấn đề lớn trong nghiên cứu. Nhóm nghiên cứu đã phải dành rất nhiều thời gian cho việc “làm sạch” dữ liệu, bóc tách các phần tính trùng của các địa phương, kiểm tra lại phương pháp thống kê của các địa phương để đảm bảo các con số được thống kê dựa trên cùng một phương pháp, tiêu chuẩn và cách tiếp cân. Điểm tích lũy cuối cùng của trụ cột có thể dẫn đến việc so sánh sức mạnh trụ cột giữa các địa phương. Để tránh tình trạng quá chú trọng vào việc so sánh này, chúng tôi chỉ ra một số mặt mạnh của các địa phương mà theo đó họ vượt trội hơn thay vì điểm tích lũy cuối cùng thấp. Hoặc các địa phương có thứ hạng cao trong trụ cột, nhưng ở một chiều kích nào đó trong trụ cột lại có điểm thấp.
 
Khác một số nghiên cứu chỉ đánh giá bản thân đối tượng, nhóm nghiên cứu đặt vấn đề về việc đánh giá đối tượng dựa trên nhu cầu. Chẳng hạn trong một tiêu chí trong cơ sở hạ tầng là giao thông đường bộ, chúng tôi đánh giá dựa trên việc khả năng đáp ứng và tổng chi phí xã hội mất đi do việc sử dụng hệ thống giao thông này chứ không đánh giá chính bản thân hệ thống giao thông đường bộ. Điển hình là Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh có hạ tầng giao thông đường bộ tốt, nhưng khả năng đáp ứng theo nhu cầu lại rất thấp, kéo theo rất nhiều chi phí xã hội phát sinh từ việc sử dụng hệ thống giao thông này do các vấn đề về tắc đường như tốn xăng, ô nhiễm, mất thời gian lưu thông trên đường, mất cơ hội để dành thời gian làm việc khác thay vì đi lại. Vì thế, kết quả tổng hợp điểm cuối cùng về trụ cột cơ sở hạ tầng mà chúng tôi công bố có khác một số kết quả đã được công bố trước đây. Do giả thiết được sử dụng và đối tượng được lựa chọn khác nhau.


Ông Nguyễn Thành Trung - Trưởng nhóm nghiên cứu

Có một số tiêu chí có thể nằm ở cả hai trụ cột, đối với phần giao thoa này, để tránh tính trùng, chúng tôi chỉ xếp đối tượng vào một trụ cột. Ví dụ, hạ tầng du lịch được tính chung trong trụ cột cơ sở hạ tầng, môi trường xã hội được đánh giá trong môi trường sống của trụ cột con người, môi trường tự nhiên được đánh giá trong trụ cột đặc điểm địa phương, mà thực tế các đối tượng này cũng có thể được xem xét trong trụ cột du lịch.
 

 (Đón đọc Kỳ 4: Thế nào là Hội nhập và các dạng thức của nó?)

[1] Simon Anholt tại www.citybrandsindex.com 

[1] Chen Bo, Yuen Pau Woo, 2008, “A composite Index of Economic Integration in the Asia – Pacific Region” 

[1] Ram C. Acharya, Someshwar Rao và Gary Sawchuk, 2002, “Building a North American Economic Integration Index” 

[1] Wantanabe Kanji, 2004, Poland, 

[1] Eva Neitzert, 2006, “Measuring Regional Progress: Developing a Regional Index of Sustainable Economic Well-being for the English Regions” 

[1]Michael G., P., David, C., & Shintaro, H, 2010, “Methodology for impact assessment of free trade agreements”, ADB 

[1] Chen, B., & Yuen Pau, W, 2009, “A Composite Index of Economic Integration in the Asia-Pacific”. 

http://www.pecc.org/state-of-the-region-report-2009/366-chapter-3-a-composite-index-of-economic-integration-in-the-asia-pacific

Nhóm PV Kinh tế VNTime (Tổng hợp)

 


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Bài viết liên quan